Trường hợp nào con trộm cắp tài sản, cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường thay cho con?

Thứ hai, 26/05/2025 | 10:57 (GMT+7)

Hỏi: Xin kính chào Luật sư! Tôi có đứa con trai, vừa qua cháu có lấy trộm một chiếc ti vi của nhà hàng xóm và bị phát hiện. Luật sư cho tôi hỏi, tôi có phải chịu trách nhiệm bồi thường cho hàng xóm không? Nếu bồi thường xong rồi thì con tôi có bị đi tù không? Rất mong được tư vấn từ Luật sư, tôi xin cảm ơn!
Đáp:
Trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật
Bồi thường là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hành vi gây thiệt hại. Bên có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải khắc phục hậu quả của hành vi trái pháp luật của mình bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất, tinh thần cho bên bị thiệt hại. Thiệt hại từ hành vi vi phạm này bao gồm: thiệt hại về vật chất và tinh thần. Trong đó, thiệt hại về vật chất như tài sản bị mất mát, bị hư hỏng, bị hủy hoại, phải tốn chi phí để khắc phục, bị thiệt hại về lợi ích từ việc sử dụng, khai thác tài sản cùng với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản. Còn thiệt hại về tinh thần: danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm và bị tổn hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một dạng trách nhiệm pháp lý dân sự nói chung, có tính cưỡng chế của Nhà nước. Trách nhiệm này nhằm buộc người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường vì những thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Giữa người gây ra thiệt hại và người bị thiệt hại không có quan hệ hợp đồng, nếu có những hành vi gây thiệt hại không liên quan tới nội dung hợp đồng đã thỏa thuận trước đó.
Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng như sau:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Trường hợp nào con trộm cắp tài sản, cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường thay cho con?
Quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo độ tuổi như sau:
- Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, nếu gây thiệt hại thì phải tự chịu trách nhiệm bồi thường.
- Trường hợp người gây thiệt hại chưa đủ mười lăm tuổi mà còn cha, mẹ. Lúc này cha mẹ phải có trách nhiệm thay mặt con bồi thường toàn bộ thiệt hại con gây ra. Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường, nhưng con chưa thành niên có tài sản riêng thì sử dụng tài sản đó để bồi thường vào phần còn thiếu. Trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật dân sự 2015.
- Trường hợp người gây thiệt hại từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì phải bồi thường bằng tài sản của mình. Nếu tài sản riêng không đủ để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu.
- Trong trường hợp người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, hay người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ, thì lúc này người giám hộ của người gây thiệt hại có trách nhiệm dùng tài sản của mình để bồi thường. Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải bồi thường bằng tài sản của mình.
Trường hợp đặc biệt về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý cụ thể như sau:
Người dưới 15 tuổi trong thời gian do trường học trực tiếp quản lý, có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về trường học.
Đối với người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian khám chữa tại bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý, thì bệnh viện, pháp nhân đó phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
Trường học, bệnh viện, pháp nhân không phải bồi thường thiệt hại nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý người mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người chưa đủ mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con gây ra theo luật hôn nhân gia đình
Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về bồi thường thiệt hại của cha mẹ đối với hành vi do con gây ra như sau:
Cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự.
Theo câu hỏi của bạn đọc, bạn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau:
- Nếu con bạn chưa đủ 15 tuổi mà trộm cắp tài sản;
- Con đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu con có tài sản riêng mà sau khi dùng tài sản riêng của mình bồi thường nhưng vẫn không đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu.
Khi con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì cha mẹ phải thay con bồi thường.
Hậu quả pháp lý của hành vi trộm cắp tài sản
Xử phạt hành chính với người có đủ năng lực chịu trách nhiệm dân sự có hành vi trộm cắp tài sản
Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác sẽ bị xử phạt như sau:
Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng nếu có các hành vi sau đây:
- Trộm cắp tài sản; xâm nhập trái phép vào khu vực nhà ở, kho bãi hoặc địa điểm khác thuộc quyền quản lý của người khác nhằm mục đích trộm cắp hay chiếm đoạt tài sản;
- Công nhiên chiếm đoạt tài sản của cá nhân, tổ chức;
- Sử dụng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
- Không trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp làm mất khả năng trả tài sản;
- Thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ gây thiệt hại tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp;
Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng
- Hủy hoại, cố ý làm hư hỏng tài sản của cá nhân, tổ chức khác;
- Dùng thủ đoạn gian dối, tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản trái pháp luật;
- Sử dụng hành vi gian lận, lừa đảo trong môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán tài sản;
- Mặc dù biết nhưng vẫn mua, bán, cất giữ, sử dụng tài sản do vi phạm pháp luật mà có;
- Cưỡng đoạt tài sản chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản
Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Trộm cắp tài sản. Mức hình phạt cơ bản là cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến tối đa 20 năm. Ngoài ra, khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 (được bổ sung bởi điểm a khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) nếu gia đình đã trả lại tài sản trộm cắp đồng thời bồi thường thiệt hại cho hàng xóm, và các bên tự nguyện hòa giải. Bạn có thể thuyết phục hàng xóm làm đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho con bạn. Nếu thỏa thuận được như vậy với hàng xóm, con bạn có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mọi thắc mắc hay có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách có thể liên hệ ngay với chúng tôi qua số hotline: 0906.219.525 hoặc gửi yêu hỗ trợ qua email: [email protected].