Những dấu hiệu cấu thành tội giết người - hình phạt của tội danh này theo quy định của bộ luật Hình sự hiện nay

Thứ hai, 26/05/2025 | 10:56 (GMT+7)

Pháp luật hiện nay quy định thế nào là tội giết người? Những yếu tố cấu thành tội danh này cũng như những vấn đề pháp lý liên quan của tội giết người sẽ được phân tích qua bài viết sau đây.
Thế nào là phạm tội giết người?
Khái niệm
Giết người là hành vi trái pháp luật trong đó người thực hiện hành vi tìm mọi cách cố ý tước đoạt tính mạng người khác.
Những dấu hiệu cấu thành tội giết người
Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội giết người theo Điều 12 Bộ luật hình sự là người từ đủ 14 tuổi trở lên, khác với một số tội danh khác chủ thể chịu trách nhiệm hình sự từ 16 tuổi. Bởi vì tội giết người là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chính vì vậy mà chủ thể của tội phạm này có độ tuổi từ đủ 14.
Hành vi khách quan của tội giết người
Hành vi khách quan của tội giết người là việc đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật. Trong đó, người thực hiện hành vi có mong muốn tước đoạt đi tính mạng của người khác, hoặc thực hiện những hành vi nguy hiểm có khả năng gây ra cái chết cho người khác, chấm dứt sự sống của họ. Những hành động có khả năng cao tước đoạt mạng sống con người có thể là sử dụng vũ khí, hung khí nguy hiểm để tác động vào thân thể người khác như: dùng dao đâm, chém, súng bắn...
Hành vi của tội giết người có thể là hành động hoặc không hành động. Với hành vi không hành động là việc đáng ra người đó có nghĩa vụ phải hành động, làm những việc nhất định để đảm bảo an toàn tính mạng của người khác nhưng người phạm tội lại không hành động, để mặc hậu quả xảy ra. Chính vì việc không hành động mà có thể gây ra cái chết cho người khác: ví dụ như bỏ đói con mới sinh, hành vi không cho đứa trẻ mới sinh bú sữa sẽ gây ra cái chết cho em bé.
Khách thể của tội giết người
Đối tượng của hành vi giết người nhắm tới là  người khác và là người đang còn sống tại thời điểm tội phạm thực hiện hành vi. Khách thể mà tội phạm này xâm phạm tới là tính mạng của người khác, quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ tối đa. Tước đoạt tính mạng của người khác, nếu tự tước đoạt tính mạng của mình thì không phải là yếu tố cấu thành tội danh giết người. Mà đó là hành vi tự sát. Tội phạm có thể trực tiếp thực hiện hành vi giết người hoặc gián tiếp thực hiện hành vi giết người. Theo đó người nào có hành vi xúi giục, hỗ trợ cho người khác tự sát cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong một số trường hợp được pháp luật cho phép, và nó không cấu thành tội giết người mà sẽ xếp vào nhóm khác như: giết người trong trường hợp phòng vệ chính đáng, hay người thực hiện nhiệm vụ thi hành án phạt tử hình.
Hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội danh này chính là làm chết người. Giữa hành vi của tội phạm và kết quả xảy ra phải có quan hệ nhân quả. Mọi chủ thể chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả thiệt hại do chính hành vi của mình gây ra, chính vì vậy người có hành vi tước đoạt tính mạng người khác trái pháp luật phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả chết người đã xảy. Và hành vi là nguyên nhân của hậu quả chết người. Thực tiễn để xác định quan hệ nguyên nhân của cái chết là do hành vi của tội phạm gây ra sẽ phải được thực hiện thông qua hoạt động điều tra của cơ quan pháp y.
Dấu hiệu về mặt lỗi của chủ thể
Yếu tố lỗi của tội danh giết người là lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Trường hợp giết người có lỗi cố ý trực tiếp là người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra hoặc đương nhiên sẽ xảy ra nhưng vẫn thực hiện hành vi với mong muốn hậu quả xảy ra. Giết người cố ý gián tiếp là tội phạm nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi có thể gây nguy hiểm đến tính mạng người khác, có thể thấy hậu quả chết người có khả năng xảy ra nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi và cố ý để mặc cho hậu quả xảy ra. 
Tóm lại, dựa vào những yếu tố cấu thành tội danh giết người như đã phân tích ở trên thì đây là tội danh có cấu thành về mặt vật chất. Tội phạm đã hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra. Nếu tính mạng nạn nhân chưa bị tước đoạt thì có thể xử lý theo khung hình phạt của tội giết người chưa đạt, hay tội cố ý gây thương tích…
Xử lý tội phạm giết người theo quy định pháp luật hình sự hiện nay
Khung hình phạt tù có thời hạn từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì sẽ áp dụng khung hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc cao nhất có thể bị tử hình đó là:
- Tội phạm giết từ 2 người trở lên;
- Nạn nhân là trẻ em, người chưa thành niên dưới 16 tuổi;
- Nạn nhân bị giết là phụ nữ mà tội phạm biết là đang mang thai;
- Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân mà tội phạm thực hiện hành vi phạm tội;
- Nạn nhân của tội giết người là ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của tội phạm;
- Giết người mà ngay trước đó hoặc ngay sau đó tội phạm lại tiếp tục thực hiện một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
- Giết người để bịt đầu mối, nhằm che dấu hoặc để thực hiện một tội phạm khác;
- Giết người để lấy một hoặc nhiều bộ phận cơ thể của nạn nhân;
- Giết người bằng những hành vi man rợ; lợi dụng nghề nghiệp của bản thân;
- Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
- Thuê người khác giết người hoặc nhận tiền từ người khác để giết người (giết người thuê);
- Tội phạm có tính chất côn đồ; phạm tội có tổ chức; tái phạm nguy hiểm; giết người vì động cơ đê hèn;
Ngoài phạm tội không thuộc các trường hợp trên thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Trường hợp giết người chưa đạt, như tội phạm đang trong thời gian chuẩn bị phạm tội vẫn được coi là có tội và khung hình phạt tù có thời hạn từ 1-5 năm.
Hình phạt bổ sung
Ngoài hình phạt tù có thời hạn thì người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề, làm công việc nhất định từ 1 - 5 năm, bị quản chế, cấm đi khỏi nơi cư trú từ 1 - 5 năm.
Một số tội giết người được quy định thành điều luật riêng trong bộ luật hình sự
- Giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh
- Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại điều 125 Bộ luật Hình sự 2015.
Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có nguyên nhân là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra đối với người phạm tội hoặc người thân của người đó. Giết người trong trạng thái này thì người đó sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Phạt tù từ 3-7 năm nếu phạm tội tội với 2 người trở lên
Để xác định tội danh này thì người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh phải có đủ điều kiện như: Tinh thần bị kích động mạnh là do hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra cho người đó hoặc người thân của người đó, khiến cho người đó không giữ được bình tĩnh và làm chủ được hành vi của mình.
Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể:
- Phạm tội giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù có thời hạn từ 3 tháng đến 2 năm.
- Phạt tù có thời hạn từ 2 – 5 năm nếu phạm tội với 2 người trở lên;
Giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định theo Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015  như sau:
Người nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hay do trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà có hành vi giết con do mình đẻ ra trong 7 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu vứt bỏ con dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Thông tin trong bài viết được cung cấp bởi đội ngũ pháp lý của Công ty Luật Bright Legal. Nếu bạn đọc có nhu cầu tư vấn pháp luật, thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan có thể liên hệ với chúng tôi theo thông tin sau:
Công ty Luật Bright Legal
Email: [email protected]
Điện thoại:  0906.219.525