Khi ly hôn, quyền sử dụng đất được phân chia như thế nào?
Thứ hai, 26/05/2025 | 11:31 (GMT+7)
Nếu kết hôn là bắt đầu cho quan hệ hôn nhân hợp pháp thì ly hôn là thủ tục chấm dứt quan hệ vợ chồng sau khi đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành, khi ly hôn quyền sử dụng đất được phân chia như thế nào? Bạn đọc cùng tìm hiểu qua bài viết sau của Luật Bright Legal nhé!
Nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Theo chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì khi ly hôn việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận tự thỏa thuận. Nếu vợ chồng không tự thỏa thuận được hoặc thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì theo yêu cầu của một bên hoặc của cả vợ chồng, Tòa án có thẩm quyền sẽ giải quyết phân chia tài sản.
Với nguyên tắc sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau:
Hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng;
Công sức đóng góp hai bên vào việc tạo lập, duy trì cũng như phát triển khối tài sản chung. Lao động của một bên trong gia đình cũng được coi như lao động có thu nhập;
Khi phân chia tài sản thì phải bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp. Tạo điều kiện để các bên tiếp tục lao động, tạo thu nhập sau thời kỳ ly hôn.
Tính đến yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền cũng như nghĩa vụ của vợ và chồng với nhau;
Tài sản chung của vợ chồng ưu tiên chia bằng hiện vật, không chia được bằng hiện vật thì tính ra giá trị để chia; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình đáng ra được hưởng thì phải thanh toán phần chênh lệch về giá trị đó cho bên còn lại.
Tài sản riêng của ai thì thuộc sở hữu của người đó, trừ khi tài sản riêng đã được sát nhập vào tài sản chung tuân thủ quy định về mặt nội dung và hình thức sát nhập. Trường hợp tài sản chung và tài sản riêng có sự trộn lẫn, sát nhập thì nếu có một bên yêu cầu chia tài sản sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản riêng của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác;
Khi phân chia tài sản sẽ ưu tiên bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của bên yếu thế hơn đó là: vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự , không có khả năng lao động cũng như không có thu nhập, tài sản khác để tự nuôi sống bản thân.
Khi ly hôn, quyền sử dụng đất được phân chia như thế nào?
Thứ nhất, nếu quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng
Liên quan đến việc phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn được quy định tại điều 62 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo đó, nếu quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc về bên đó khi ly hôn.
Thứ hai, nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung
Nếu quyền sử dụng đất được xác định là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ được phân chia như sau:
Trường hợp là quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy hải sản, đất ở thì nếu cả hai bên có nhu cầu cũng như có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì chia theo thỏa thuận của vợ và chồng. Trường hợp không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án đứng ra phân chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Nếu chỉ có một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà đáng ra họ được hưởng. Trong trường hợp quyền sử dụng đất này chung với hộ gia đình thì khi ly hôn sẽ tách phần quyền này của vợ chồng ra và tiến hành phân chia theo quy định.
Đối với quyền sử dụng các loại đất khác thì việc phân chia sẽ theo quy định của luật đất đai.
Nếu vợ chồng sống chung trong hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất, không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
Nếu vợ chồng chung sống trong hộ gia đình mà ly hôn, tài sản của các bên trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được. Lúc này thì vợ hoặc chồng sẽ được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình. Căn cứ để chia chính là dựa vào công sức đóng góp của vợ hoặc chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như góp công góp của duy trì đời sống chung của gia đình. Việc phân chia này do các bên tự thỏa thuận với gia đình, nếu không tự thỏa thuận được, không phân chia rõ ràng thì có thể yêu cầu Tòa án đứng ra giải quyết.
Trong trường hợp sống chung và tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần. Khi ly hôn, phần tài sản này của vợ hoặc chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định ở điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Thời điểm có hiệu lực của việc phân chia khối tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Thời điểm có hiệu lực khi phân chia tài sản chung sẽ do vợ chồng thỏa thuận và được ghi rõ trong văn bản. Nếu văn bản không ghi rõ thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
Trường hợp tài sản chia theo quy định của pháp luật cũng như phải tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục, hình thức nhất định thì thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ tính từ thời điểm việc thỏa thuận hoàn thành và tuân thủ theo hình thức mà pháp luật quy định.
Nếu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ chồng thì thời điểm có hiệu lực chính là thời điểm kể từ khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quyền cũng như nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với bên thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực thì quan hệ về quyền và nghĩa vụ tài sản đó vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Một số điểm mới theo quy định của pháp luật phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn
Ngày 29/11/2013, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Đất đai, và trong quy định có những điểm mới mà khi giải quyết các vụ án phân chia nhà đất của vợ chồng khi ly hôn, các cấp Tòa án lưu ý để giải quyết cho phù hợp.
Thứ nhất là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Luật Đất đai năm 2013 so với Luật đất đai năm 2003 đã ghi nhận vấn đề tặng cho quyền sử dụng đất tại Điều 170 và cũng quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục đăng ký tặng cho quyền sử dụng đất. Vì vậy, kể từ thời điểm Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thì việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và vợ chồng, giữa vợ với chồng với nhau phải tuân thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục, hình thức của pháp luật đất đai mới được coi là hoàn thành và được pháp luật công nhận.
Điều 203 Luật đất đai 2013 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai được thể hiện cụ thể rõ ràng hơn:
Những tranh chấp đất đai đã được tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nhưng không thành thì sẽ tiến hành giải quyết tiếp như sau:
Đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật đất đai 2013 cùng với những tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân;
Nếu đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật đất đai 2013 thì chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai sau đây: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền; Tiến hành khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của luật tố tụng dân sự;
Thứ hai là về định giá đất
Điều 18 Luật Đất đai năm 2013 thì giá đất được quy định như sau:
Phương pháp định giá đất sẽ do nhà nước quy định;
Khung giá đất, bảng giá đất, quyết định giá đất cụ thể do nhà nước ban hành;
Nguyên tắc định giá đất: tuân theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá; Dựa theo thời hạn sử dụng đất được giao; Giá đất phù hợp với giá thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất; Giá của các thửa đất liền kề nhau có cùng cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau tại cùng một thời điểm thì có mức giá như nhau.
Nội dung nêu trên là phần tư vấn và cung cấp thêm thông tin chuyên sâu của chúng tôi dành cho khách hàng của Luật Bright Legal. Nếu còn vướng mắc, cần hỗ trợ tư vấn pháp lý khác liên quan quý khách vui lòng gửi thư về Email: [email protected]. Hoặc gọi theo số hotline: 0906.219.525
Nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Theo chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì khi ly hôn việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận tự thỏa thuận. Nếu vợ chồng không tự thỏa thuận được hoặc thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì theo yêu cầu của một bên hoặc của cả vợ chồng, Tòa án có thẩm quyền sẽ giải quyết phân chia tài sản.
Với nguyên tắc sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau:
Hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng;
Công sức đóng góp hai bên vào việc tạo lập, duy trì cũng như phát triển khối tài sản chung. Lao động của một bên trong gia đình cũng được coi như lao động có thu nhập;
Khi phân chia tài sản thì phải bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp. Tạo điều kiện để các bên tiếp tục lao động, tạo thu nhập sau thời kỳ ly hôn.
Tính đến yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền cũng như nghĩa vụ của vợ và chồng với nhau;
Tài sản chung của vợ chồng ưu tiên chia bằng hiện vật, không chia được bằng hiện vật thì tính ra giá trị để chia; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình đáng ra được hưởng thì phải thanh toán phần chênh lệch về giá trị đó cho bên còn lại.
Tài sản riêng của ai thì thuộc sở hữu của người đó, trừ khi tài sản riêng đã được sát nhập vào tài sản chung tuân thủ quy định về mặt nội dung và hình thức sát nhập. Trường hợp tài sản chung và tài sản riêng có sự trộn lẫn, sát nhập thì nếu có một bên yêu cầu chia tài sản sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản riêng của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác;
Khi phân chia tài sản sẽ ưu tiên bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của bên yếu thế hơn đó là: vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự , không có khả năng lao động cũng như không có thu nhập, tài sản khác để tự nuôi sống bản thân.
Khi ly hôn, quyền sử dụng đất được phân chia như thế nào?
Thứ nhất, nếu quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng
Liên quan đến việc phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn được quy định tại điều 62 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo đó, nếu quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc về bên đó khi ly hôn.
Thứ hai, nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung
Nếu quyền sử dụng đất được xác định là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ được phân chia như sau:
Trường hợp là quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy hải sản, đất ở thì nếu cả hai bên có nhu cầu cũng như có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì chia theo thỏa thuận của vợ và chồng. Trường hợp không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án đứng ra phân chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Nếu chỉ có một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà đáng ra họ được hưởng. Trong trường hợp quyền sử dụng đất này chung với hộ gia đình thì khi ly hôn sẽ tách phần quyền này của vợ chồng ra và tiến hành phân chia theo quy định.
Đối với quyền sử dụng các loại đất khác thì việc phân chia sẽ theo quy định của luật đất đai.
Nếu vợ chồng sống chung trong hộ gia đình không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất, không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
Nếu vợ chồng chung sống trong hộ gia đình mà ly hôn, tài sản của các bên trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được. Lúc này thì vợ hoặc chồng sẽ được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình. Căn cứ để chia chính là dựa vào công sức đóng góp của vợ hoặc chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như góp công góp của duy trì đời sống chung của gia đình. Việc phân chia này do các bên tự thỏa thuận với gia đình, nếu không tự thỏa thuận được, không phân chia rõ ràng thì có thể yêu cầu Tòa án đứng ra giải quyết.
Trong trường hợp sống chung và tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần. Khi ly hôn, phần tài sản này của vợ hoặc chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định ở điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Thời điểm có hiệu lực của việc phân chia khối tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Thời điểm có hiệu lực khi phân chia tài sản chung sẽ do vợ chồng thỏa thuận và được ghi rõ trong văn bản. Nếu văn bản không ghi rõ thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
Trường hợp tài sản chia theo quy định của pháp luật cũng như phải tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục, hình thức nhất định thì thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ tính từ thời điểm việc thỏa thuận hoàn thành và tuân thủ theo hình thức mà pháp luật quy định.
Nếu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ chồng thì thời điểm có hiệu lực chính là thời điểm kể từ khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quyền cũng như nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với bên thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực thì quan hệ về quyền và nghĩa vụ tài sản đó vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Một số điểm mới theo quy định của pháp luật phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn
Ngày 29/11/2013, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Đất đai, và trong quy định có những điểm mới mà khi giải quyết các vụ án phân chia nhà đất của vợ chồng khi ly hôn, các cấp Tòa án lưu ý để giải quyết cho phù hợp.
Thứ nhất là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Luật Đất đai năm 2013 so với Luật đất đai năm 2003 đã ghi nhận vấn đề tặng cho quyền sử dụng đất tại Điều 170 và cũng quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục đăng ký tặng cho quyền sử dụng đất. Vì vậy, kể từ thời điểm Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thì việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và vợ chồng, giữa vợ với chồng với nhau phải tuân thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục, hình thức của pháp luật đất đai mới được coi là hoàn thành và được pháp luật công nhận.
Điều 203 Luật đất đai 2013 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai được thể hiện cụ thể rõ ràng hơn:
Những tranh chấp đất đai đã được tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nhưng không thành thì sẽ tiến hành giải quyết tiếp như sau:
Đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật đất đai 2013 cùng với những tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân;
Nếu đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật đất đai 2013 thì chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai sau đây: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền; Tiến hành khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của luật tố tụng dân sự;
Thứ hai là về định giá đất
Điều 18 Luật Đất đai năm 2013 thì giá đất được quy định như sau:
Phương pháp định giá đất sẽ do nhà nước quy định;
Khung giá đất, bảng giá đất, quyết định giá đất cụ thể do nhà nước ban hành;
Nguyên tắc định giá đất: tuân theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định giá; Dựa theo thời hạn sử dụng đất được giao; Giá đất phù hợp với giá thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất; Giá của các thửa đất liền kề nhau có cùng cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau tại cùng một thời điểm thì có mức giá như nhau.
Nội dung nêu trên là phần tư vấn và cung cấp thêm thông tin chuyên sâu của chúng tôi dành cho khách hàng của Luật Bright Legal. Nếu còn vướng mắc, cần hỗ trợ tư vấn pháp lý khác liên quan quý khách vui lòng gửi thư về Email: [email protected]. Hoặc gọi theo số hotline: 0906.219.525