BÀN VỀ YẾU TỐ ĐỊNH LƯỢNG TÀI SẢN TRONG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN - ĐIỀU 173 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Thứ ba, 10/06/2025 | 08:45 (GMT+7)
- Đặt vấn đề
Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm xâm phạm quyền sở hữu phổ biến trong xã hội. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tiếp tục kế thừa và hoàn thiện quy định về tội phạm này tại Điều 173, thay thế cho Điều 138 BLHS 1999, nhằm bảo đảm tính nghiêm minh, công bằng và phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, quy định của pháp luật qua các thời kỳ liên quan đến tội trộm cắp tài sản nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung lại không gắn liền với việc sửa đổi văn bản hướng dẫn thi hành các tội này. Chính điều này đã nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng luật trên thực tế. Đặc biệt là vấn đề định lượng tài sản làm căn cứ định khung hình phạt người phạm tội theo khung hình phạt nào trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp nhiều lần. Đây là vấn đề từng được đề cập tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP (hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 1999 đối với các tội xâm phạm sở hữu). Tuy nhiên, văn bản này chỉ đề cập trường hợp nhiều lần phạm tội mà mỗi lần dưới mức định lượng hình sự, mà chưa hướng dẫn rõ ràng khi mỗi lần chiếm đoạt đều trên mức định lượng hình sự hoặc có sự kết hợp giữa nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp trong đó có lần trên mức truy cứu TNHS và có lần dưới mức truy cứu TNHS.
BLHS 2015 và văn bản hướng dẫn hiện hành vẫn chưa có quy định cụ thể giải quyết trực tiếp vấn đề này. Điều này tạo nên sự thiếu thống nhất trong thực tiễn xét xử.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới vướng mắc trong việc truy cứu TNHS đối với hai trường hợp liên quan tới định lượng giá trị tài sản chiếm đoạt của tất cả các lần thực hiện hành vi trộm cắp (chưa bị phát hiện xử lý trước đó). Đó là: 1. Định lượng giá trị tài sản trộm cắp để làm căn cứ định khung hình phạt trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên; 2. Định lượng giá trị tài sản trộm cắp để làm căn cứ định khung hình phạt trong trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản mà trong đó có lần thực hiện hành vi trộm cắp có giá trị bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu TNHS (hành vi phạm tội trộm cắp), có lần thực hiện hành vi trộm cắp có giá trị dưới mức tối thiểu để truy cứu TNHS (không thuộc các trường hợp khác để truy cứu TNHS).
- Định lượng giá trị tài sản trộm cắp để làm căn cứ định khung hình phạt trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần
Về nguyên tắc, việc người phạm tội nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, trong đó mỗi lần chiếm đoạt tài sản đều có giá trị trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự, cần được xem xét một cách toàn diện, cả về số lần thực hiện hành vi và tổng giá trị tài sản chiếm đoạt.
Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết thống nhất về việc cộng tổng giá trị tài sản để định khung hình phạt đối với trường hợp phạm tội nhiều lần (dù đã đủ yếu tố cấu thành tội ở từng lần), trên thực tế vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau.:
Vào ngày 28.04.2023, N.V.P thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trị giá 24.000.0000 VNĐ của gia đình ông K trú tại huyện T tỉnh H. Sau khi vụ việc trên được điều tra làm rõ, cơ quan điều tra công an huyện T còn phát hiện trong khoảng thời gian từ năm 2021 đến 2023 P còn thực hiện ba lần trộm cắp khác:
Lần 1: Ngày 12.4.2021, N.V.P trộm cắp tài sản trị giá 18.000.000 VNĐ của gia đình ông X trú tại huyện T tỉnh H.
Lần 2: Ngày 03.03.2022, N.V.P trộm cắp tài sản trị giá 14.000.000 VNĐ của gia đình ông H trú tại huyện T tỉnh H.
Lần 3: Vào Ngày 11.6.2023, N.V.P tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có trị giá 18.000.000 VNĐ của gia đình ông Đ trú tại huyện T tỉnh H.
Như vậy, N.V.P đã thực hiện tổng cộng 04 lần hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, tổng giá trị tài sản các lần P chiếm đoạt là 74.000.000 VNĐ. Cơ quan chức năng đã điều tra, khởi tố, truy tố P về tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ việc, đã nảy sinh những quan điểm trái nhiều nhau.
Quan điểm thứ 1: N.V.P phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Quan điểm này vận dụng theo tinh thần điểm a mục 5 phần II Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự 1999 (sau đây gọi tắt là Thông tư 02) để lập luận: hành vi phạm tội của N.V.P không thực hiện một các liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, giá trị tài sản chiếm đoạt của các lần thực hiện hành vi trộm cắp cao hơn mức tối thiểu (tức đủ yếu tố cấu thành tội phạm đối với từng lần thực hiện hành vi trộm cắp) nên không áp dụng quy định cộng tổng giá trị. Hơn nữa, theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì P chỉ bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 173 BLHS với tình tiết tăng nặng TNHS là “phạm tội từ 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
Quan điểm thứ 2: N.V.P phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS. Quan điểm này cho rằng tinh thần của mục 1 phần III Thông tư 02 là hướng dẫn đối với những trường hợp cụ thể tương tự như trường hợp nêu trên. Nghĩa là theo tinh thần trên thì trường hợp giá trị tài sản chiếm đoạt mà mỗi lần thực hiện hành trộm cắp tài sản trên mức tối thiểu để truy cứu TNHS thì cũng cộng tổng giá trị tài sản chiếm đoạt để truy cứu TNHS. Nếu tổng giá trị tài sản chiếm đoạt thuộc khoản 1 Điều 173 BLHS thì truy cứu theo khoản 1 Điều 173 BLHS, nếu tổng giá trị tài sản chiếm đoạt thuộc khoản 2 Điều 173 BLHS thì truy cứu TNHS theo khoản 2 Điều 173 BLHS. Hơn nữa, để đánh giá đúng tính chất hành vi phạm tội của P thì nên truy tố N.V.P theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS – tức chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng.
Chúng tôi cho rằng cách hiểu theo quan điểm thứ 2 là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành cũng như phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm hiện nay. Bởi lẽ: Điều 173 BLHS 2015 đã quy định chi tiết các mức định lượng tài sản tương ứng với từng khung hình phạt. Hành vi trộm cắp nhiều lần thể hiện tính chất nguy hiểm cao hơn, có tổ chức hơn so với hành vi đơn lẻ. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản cao hơn vừa đảm bảo tính răn đe, vừa phù hợp với yêu cầu thực tiễn và công bằng trong xử lý.
- Định lượng tài sản trộm cắp để định khung hình phạt trong trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản, trong đó có lần đủ yếu tố định lượng để truy cứu TNHS, có lần không đủ yếu tố định lượng để truy cứu TNHS (giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng).
Hiện nay, trong văn bản pháp luật hiện hành, chưa có hướng dẫn thi hành trường hợp nêu trên, dẫn đến tình trạng nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng pháp luật trên thực tế. Có thể lấy dẫn chứng ví dụ sau:
Ví dụ: Ngày 01/01/2022 A có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy Yamaha Sirious trị giá 14.000.000 đồng tại huyện X tỉnh Y. Ngày 05/03/2023 A lại có hành vi trộm cắp 01 chiếc ti vi LG trị giá 1.800.000 đồng tại huyện Z tỉnh Y. Ngày 10/08/2023 A có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy Honda Air blade trị giá 35.000.000 đồng tại huyện Z tỉnh Q.
Với trường hợp này, nảy sinh hai quan điểm, quan điểm thứ 1: không cộng tổng giá trị tài sản chiếm đoạt của từng lần trộm cắp mà chỉ truy cứu TNHS của A theo khoản 1 Điều 173 BLHS.
Quan điểm thứ 2 cho rằng cần cộng tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt của cả 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp để truy cứu TNHS người phạm tội trong trường hợp này theo khoản 2 Điều 173 BLHS. Bởi lẽ, hành vi trộm cắp của A diễn ra liên tục trong một khoảng thời gian dài, lần trộm cắp tài sản thứ nhất của A đã đủ yếu tố định lượng cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản. Nếu hành vi này bị phát hiện và xử lý TNHS thì hành vi trộm cắp lần 2 đương nhiên sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật hình sự dù giá trị tài sản trộm cắp lần 2 dưới mức định lượng tài sản trộm cắp (trộm cắp tài sản của người khác có giá trị dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích). Do đó, hành vi trộm cắp lần 2 của A cũng phải được coi là hành vi phạm tội. Hơn nữa, theo tinh thần của Thông tư 02 thì dù bằng, trên hay dưới mức tổi thiểu để truy cứu TNHS thì cũng cộng tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt để là căn cứ truy cứu TNHS của người phạm tội.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ 2. Việc cộng tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong trường hợp này cũng là một biện pháp để đảm bảo sự công bằng khi xử lý TNHS đối với các trường hợp cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản các lần như nhau, nhưng có người bị phát hiện, xử lý trước, có người bị phát hiện, xử lý sau thì cần cộng tổng giá trị tài sản các lần chiếm đoạt lại để truy cứu TNHS người phạm tội. Bên cạnh đó, để đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, giáo dục, răn đe đối với người phạm tội cũng như đối với xã hội thì cũng cần xử lý nghiêm minh những trường hợp thực hiện hành vi trộm cắp nhiều lần, dù mỗi lần phạm tội trộm cắp có giá trị tài sản bị chiếm đoạt trên hoặc dưới mức tối thiểu để truy cứu TNHS.
- Kiến nghị
Trong những năm gần đầy, tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp nói riêng xảy ra khá phổ biến và phức tạp, giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày càng lớn, thủ đoạn thực hiện hành vi trộm cắp ngày càng tinh vi hơn gây khó khăn cho công tác điều tra xử lý loại tội phạm này. Hơn nữa, đối với những người thực hiện hành vi trộm cắp vặt thường gây rất nhiều bức xúc trong nhân dân, đó chính là nguyên nhân gây ra những vụ án giết người, hủy hoại tài sản của người người thực hiện hành vi trộm cắp thương tâm xảy ra trong thời gian gần đây. Để góp phần giáo dục, răn đe người phạm tội cũng như những người đang và sẽ có ý định phạm tội trộm cắp, chúng ta cần có thái độ nghiêm khắc hơn đối với những người thực hiện hành vi trộm cắp nhiều lần. Điều này không chỉ tạo được lòng tin trong nhân dân, mà còn giải tỏa những bức xúc bấy lâu nay của người dân về những đối tượng trộm cắp nhiều lần nhưng không bị xử lý một cách thích đáng hoặc bị xử lý “quá nhẹ”, nhằm hạn chế tiến tiến tới đẩy lùi nạn người dân “tự xử lý” các đối tượng trộm cắp xảy ra như hiện nay.
Thực tiễn xét xử cho thấy, sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng các tình tiết định lượng trong các trường hợp phạm tội nhiều lần đang dẫn đến sự bất bình đẳng trong xử lý hình sự đối với những bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội có tính chất như nhau nhưng mỗi địa phương lại xử lý khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi kiến nghị:
Thứ nhất, bổ sung hướng dẫn cụ thể vào Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hoặc Thông tư liên tịch về cách cộng gộp giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong các lần phạm tội.
Thứ hai, quy định rõ tại Điều 173 BLHS tình tiết “phạm tội từ 02 lần trở lên” là tình tiết định khung tăng nặng để phản ánh đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp nhiều lần.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến tổng hợp hình phạt, tổng hợp hành vi để bảo đảm xử lý công bằng giữa người phạm tội bị phát hiện cùng lúc và người bị phát hiện ở các thời điểm khác nhau.
Việc xác định đúng yếu tố định lượng trong các trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản nhiều lần không chỉ góp phần bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất, mà còn mang ý nghĩa quan trọng trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Với tính chất phức tạp và hậu quả ngày càng nghiêm trọng của loại tội phạm này, việc bổ sung quy định và hướng dẫn cụ thể là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn xét xử hiện nay.