Con ngoài giá thú (con riêng) có được quyền hưởng di sản thừa kế hay không?

Thứ hai, 26/05/2025 | 10:51 (GMT+7)

Hỏi: Kính chào luật sư, ba mẹ tôi kết hôn và sinh ra 3 anh chị em chúng tôi. Tuy nhiên, gần đây chúng tôi chúng tôi mới biết rằng: trước khi kết hôn với mẹ thì ba tôi đã có 01 người con riêng. Tôi muốn biết sau này nếu ba mẹ tôi mất đi mà người con ngoài giá thú đó đến nhận cha con thì con ngoài giá thú (con riêng) có được quyền hưởng di sản thừa kế như 3 anh chị em chúng tôi hay không?Đáp:Quy định của pháp luật về con ngoài giá thúThế nào là con ngoài giá thú (con riêng)?Trong các văn bản pháp luật hiện nay, khái niệm con ngoài giá thú hay còn gọi là con riêng không được quy định cụ thể. Có thể hiểu khái niệm con ngoài giá thú như sau: con ngoài giá thú hay còn có cách gọi khác là con riêng chính là con được sinh ra không trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp. Ví dụ: con sinh ra khi cha mẹ không có đăng ký kết hôn, sinh ra ra trước thời kỳ hôn nhân, hoặc sinh ra khi cha hoặc mẹ đang tồn tại quan hệ hôn nhân với người khác. Tại Khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã khẳng định rằng: con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ, theo đó họ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình. Dù con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp hoặc ngoài hôn nhân hợp pháp (con ngoài giá thú) thì vẫn có quyền và nghĩa vụ giống nhau và không thay đổi. Như vậy pháp luật đã thể hiện rõ quan điểm không phân biệt quyền cũng như nghĩa vụ giữa con chung và con ngoài giá thú (con riêng). Do đó quyền thừa kế di sản của cha mẹ để lại cũng không có sự phân biệt giữa con trong giá thú và con ngoài giá thú. Có thể thấy, mặc dù mối quan hệ về mặt tình cảm giữa những không có quan hệ vợ chồng và cũng không được pháp luật công nhận. Nhưng những đứa trẻ được sinh ra từ mối quan hệ này vẫn được pháp luật bảo vệ tối đa về mặt quyền và lợi ích chính đáng.  Đã có những quy định cụ thể dành cho những đứa trẻ ngoài giá thú này để nhằm bảo đảm được lợi ích của họ, tạo điều kiện để những người con riêng này được quyền bình đẳng được học tập, vui chơi, phát triển giống như những đứa trẻ bình thường khác.  Như vậy, có thể khẳng định rằng con trong giá thú hay con riêng ngoài giá thú đều có quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ là như nhau. Vấn đề con riêng của vợ hoặc chồng có được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ mình giống như các con trong giá thú hay không? Tùy từng trường hợp cụ thể và phụ thuộc vào yếu tố như: Chứng minh quan hệ cha, mẹ với con, quyền thừa kế phụ thuộc vào sự hợp pháp của di chúc, nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì sẽ dựa vào quy định của pháp luật về việc chia thừa kế trong trường hợp này.Vấn đề hưởng di sản thừa kế của con riêng Con ngoài giá thú sẽ không được hưởng di sản thừa kế mà người để lại di sản là bố dượng, mẹ kế của người đó trừ trường hợp được quy định tại Điều 654 Bộ luật dân sự 2015. Đó là giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giống như cha con, mẹ con thì sẽ được thừa kế di sản của nhau. Ngoài ra, trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại điều điều 652 và được quyền thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ theo Điều 653.Con riêng được hưởng di sản thừa kế theo 2 trường hợp đó là: hưởng thừa kế theo pháp luật và hưởng thừa kế theo di chúc của người để lại di sản.Con ngoài giá thú (con riêng) được hưởng thừa kế theo di chúc?Theo nội dung của di chúc, con riêng sẽ được hưởng phần thừa kế như trong nội dung đã được ghi nhận. Và di chúc này phải được đảm bảo về tính hợp pháp.Trường hợp người để lại di sản có lập di chúc nhưng nội dung di chúc không đề cập đến việc con ngoài giá thú được hưởng di sản hoặc hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba của một suất di sản thì sẽ được xử lý như sau:Nếu con riêng thuộc những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ Luật Dân sự năm 2015 cụ thể như: người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân thì vẫn được hưởng 2/3 của một phần di sản thừa kế theo pháp luật. Trừ trường hợp con riêng từ chối nhận di sản thừa kế.Trường hợp con riêng đã thành niên, và có khả năng lao động thì nếu di chúc có ghi nhận việc để lại tài sản cho họ thì người đó sẽ được hưởng phần di sản đó. Ngược lại nếu trong di chúc của người để lại di sản không đề cập đến con riêng cũng như ghi nhận được hưởng thừa kế thì họ sẽ không được hưởng thừa kế.Ngoài ra con riêng nếu thuộc trong nhóm đối tượng không được hưởng di sản thừa kế thì không phụ thuộc vào nội dung di chúc, họ cũng không được hưởng di sản thừa kế nếu:- Người đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản.  - Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản;- Người đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý xâm phạm tính mạng những người đồng thừa kế khác nhằm mục đích chiếm một phần hay toàn bộ di sản thừa kế của của đó;- Người có hành vi gian dối, cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản trong quá trình lập di chúc; giả mạo sửa chữa, tiêu hủy, che dấu di chúc, nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với nguyện vọng, ý chí của người để lại di sản.Tuy nhiên nếu như người để lại di sản biết những hành vi trên nhưng vẫn cho họ được hưởng di sản và ghi rõ trong di chúc thì họ vẫn được quyền hưởng di sản thừa kế.Như vậy trong một số trường hợp cụ thể đã được pháp luật liệt kê rõ, thì con riêng vẫn được hưởng di sản thừa kế.Con ngoài giá thú (con riêng) được hưởng thừa kế theo pháp luậtNhững trường hợp di sản sẽ được phân chia theo pháp luật bao gồm:- Khi người chết không để lại di chúc;- Có di chúc nhưng di chúc đó không hợp pháp;- Những người thừa kế theo di chúc đã chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản, cơ quan, tổ chức hưởng di sản thừa kế theo di chúc đã giải thể không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;- Người thừa kế theo di chúc bị tước quyền thừa kế, hoặc từ chối nhận di sản;- Chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản không được định đoạt trong di chúc; di sản liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực pháp luật; phần di sản liên quan đến người không có quyền hưởng di sản, từ chối hay chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc; hay là cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.Nếu như con ngoài giá thú được xác định quan hệ máu mủ ruột thịt, có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thì họ được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất. Họ được hưởng ngang quyền với những người còn lại như vợ, chồng, mẹ đẻ, cha đẻ, mẹ nuôi, con nuôi, con đẻ của người chết.Lưu ý: Trường hợp con riêng mà chưa được sinh ra nhưng đã thành thai thì vẫn được hưởng phần thừa kế di sản giống những người cùng hàng thừa kế thứ nhất (Quy định tại điều 660 BLDS 2015) nếu thai nhi đó còn sống, sau khi sinh ra thì sẽ được hưởng di sản thừa kế đã được pháp luật phân chia. Nếu thai nhi chết trước khi sinh ra thì phần di sản này sẽ được chia cho những người khác trong hàng thừa kế.Nếu người đó chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng phần di sản thừa kế này.Về quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế thì cũng được pháp luật quy định rõ nếu những người này có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì sẽ đương nhiên được hưởng thừa kế di sản của nhau. Quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng như cha con mẹ con là một khái niệm không được giải thích rõ trong chế định nào của pháp luật. Tuy nhiên bằng cách hiểu nôm na thông thường thì quan hệ nuôi dưỡng chăm sóc này là giữa họ có sự yêu thương, nuôi dưỡng chăm sóc nhau như những gia đình bình thường giống như những người ruột thịt với nhau trong gia đình.Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật Công ty Luật Bright LegalEmail: [email protected] Điện thoại: 0906.219.525Rất mong nhận được sự hợp tác, Trân trọng cảm ơn!