Chồng mua nhà đất cho nhân tình, khi ly hôn vợ có đòi chia được không?

Thứ sáu, 23/05/2025 | 15:53 (GMT+7)

Đáp: Chào bạn, thực trạng xã hội hiện nay thì việc vợ, chồng có có mối quan hệ ngoài luồng không còn là chuyện gì quá xa lạ. Mặc dù biết đây là hành vi trái đạo đức, trái pháp luật nhưng nhiều người vẫn bất chấp thực hiện. Thậm chí nhiều người còn hào phóng sẵn sàng chi tiền tỷ mua nhà đất, quà cáp, hàng hiệu cho nhân tình. Luật sư rất hiểu và thông cảm với hoàn cảnh của bạn, hi vọng nội dung trả lời sau đây sẽ giúp bạn phần nào giải tỏa được khúc mắc nêu trên.

Ngoài những vấn đề vướng mắc vợ chồng thường gặp phải khi ly hôn có thể là về mặt tình cảm, trách nhiệm với con cái thì vấn đề tài sản phân chia như thế nào? Chứng minh tài sản chung, tài sản riêng, công sức đóng góp, tôn tạo tài sản… cũng khá phức tạp. Nhất là khi vợ chồng có khối tài sản lớn thì việc phân chia sẽ kéo dài,  phức tạp hơn. 

Không riêng gì chồng của bạn, rất nhiều ông chồng khi ngoại tình đã mua cho nhân tình rất nhiều tài sản có giá trị. Khi ly hôn để xác định tài sản mua cho nhân tình là tài sản riêng hay tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng không phải là vấn đề đơn giản. Bạn phải hiểu rõ rằng, không phải tài sản nào chồng bạn mua cho nhân tình trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của hai vợ chồng. Vấn đề mấu chốt ở đây là xác định ai là người đứng tên sở hữu tài sản đó? Căn cứ nào để chứng minh đó là tài sản chung của vợ chồng bạn.

Như vậy, cho dù nhà đất mà chồng bạn mua trong thời kỳ hôn nhân, nhưng chồng bạn lại cho nhân tình đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, không tìm được chứng cứ chứng minh tài sản đó thuộc về người chồng, thì mặc dù biết bản chất sự thật hiển nhiên chồng bạn bỏ tiền mua cho nhân tình thì khi ly hôn bạn cũng không đòi chia và lấy lại được.

Và ngược lại, nếu chồng bạn đứng tên trên giấy chứng nhận và ông ấy không có chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng thì đương nhiên nhà đất đó vẫn là tài sản chung vợ chồng, bạn vẫn có quyền yêu cầu được chia tài sản này.

Khoản 1 của Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giải thích khái niệm tài sản chung vợ chồng như sau:

Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ và chồng lao động tạo ra, thu nhập được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Những lợi ích, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và các nguồn thu nhập hợp pháp khác trong thời gian hôn nhân, trừ khi có quy định khác tại khoản 1 Điều 40 của Luật này. Những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung, cùng với các tài sản khác mà vợ chồng đều thỏa thuận được xem là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất, tài sản khác gắn liền với đất mà vợ hoặc chồng có được sau khi kết hôn cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng. Vợ chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng nếu không thỏa thuận là tài sản chung thì đây là tài sản riêng của vợ chồng. Điều này xác định rõ rằng tài sản chung của vợ chồng bao gồm các tài sản được tạo ra bởi cả hai, thu nhập từ hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh, và các nguồn thu nhập 

Vợ hoặc chồng tự ý sử dụng tiền lương, hoặc các tài sản chung khác để tài sản, đồ vật khác cho nhân tình được xem là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp. Hành vi tạo lập tài sản cho nhân tình là hành vi vi phạm nghĩa vụ vợ chồng và không được pháp luật công nhận.

Quá trình phân chia tài sản giữa vợ và chồng khi ly hôn được pháp luật khuyến khích dựa trên thỏa thuận giữa các bên. Nếu vợ chồng không đạt được thỏa thuận về tỉ lệ phân chia, cách thức phân chia thì sẽ áp dụng nguyên tắc chia đôi.

Trong quá trình phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì yếu tố điều kiện kinh tế, hoàn cảnh của gia đình cả vợ và chồng sẽ được xem xét tính đến. Sở dĩ xem xét đến hoàn cảnh gia đình để đảm bảo tính hợp lý, công bằng, phù hợp với tình huống cụ thể của mỗi gia đình cũng như các bên liên quan.

Công sức đóng góp của vợ và chồng trong quá trình tạo lập, tôn tạo, duy trì và phát triển khối tài sản chung sẽ được xem xét để phân chia. Có thể tỉ lệ phân chia không còn là 50/50 nữa mà tỉ lệ phần lớn sẽ thuộc về người có công sức đóng góp nhiều hơn. Tuy nhiên cũng cần hiểu rằng quá trình trong gia đình, các công việc gia đình, nội rợ vẫn được coi như là lao động có thu nhập, và đóng góp này vẫn được xem xét, ghi nhận để phân chia tài sản.

Quá trình phân chia tài sản chung cũng cần tôn trọng, và quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích chính đáng của từng bên trong việc kinh doanh, sản xuất, cũng như nghề nghiệp của mỗi bên sau ly hôn. Sự phân chia tài sản đảm bảo cả vợ và chồng đều được tạo điều kiện để tiếp tục lao động tạo ra giá trị tài sản sau khi ly hôn.

Sự xem xét yếu tố lỗi của mỗi bên vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng cũng được cân nhắc tới. Yếu tố lỗi cũng ảnh hưởng phần nào đến quyết định cuối cùng về việc chia tài sản chung.

Tóm lại, quá trình phân chia tài sản khi ly hôn của vợ và chồng Tòa án sẽ phải cân nhắc và xem xét nhiều yếu tố nhằm đảm bảo tính công bằng cũng như tôn trọng và bảo vệ tối đa lợi ích của cả hai bên trong gia đình.

Lúc này nhà đất là tài sản riêng của chồng, việc chồng mua cho ai, dùng làm gì là việc riêng của chồng. Người vợ sẽ không được quyền chia tài sản này khi ly hôn 

Lúc này người chồng đã có hành vi vi phạm quy định về chế độ tài sản chung vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất, tài sản này được dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình cũng như sử dụng nhằm mục đích thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Nếu xác định được nhà đất do người chồng đứng tên sở hữu thì đương nhiên là tài sản chung của vợ chồng. Tài sản này được hình thành trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp, khi ly hôn nhà đất đó được chia theo thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án đứng ra phân chia.

Trường hợp nhà đất và tài sản khác mà chồng bạn để nhân tình đứng tên sở hữu thì việc đòi lại sẽ phức tạp hơn nhiều. Lúc này nếu người vợ có đủ chứng cứ để chứng minh nhà đất, tài sản đó được mua từ tiền chung của hai vợ chồng. Việc chứng minh nguồn gốc hình thành tài sản cũng không phải là điều đơn giản lúc này. Theo điều 123 bộ luật dân sự 2015 nếu giao dịch dân sự có mục đích cũng như nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì giao dịch dân sự đó vô hiệu. Do người chồng sử dụng tài sản chung để mua nhà đất, tài sản cho nhân tình không phải xuất phát từ nhu cầu của gia đình hay để thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Chính vì vậy giao dịch này là vi phạm pháp luật và vô hiệu, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì hậu quả pháp lý sẽ là các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì quy ra thành thành tiền để hoàn trả.

Trên đây là toàn bộ nội dung thông tin mà Luật Bright Legal giải đáp cho thắc mắc của chị. Nếu còn điều gì chưa rõ và cần Luật sư hỗ trợ, chị vui lòng liên hệ theo thông tin sau:  

Công ty Luật Bright Legal

Email: [email protected] 

Điện thoại: 0906.219.525

Trân trọng!