TỔNG HỢP KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
TỔNG HỢP KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
STT |
NỘI DUNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC |
TRẢ LỜI |
1 |
Áp dụng thủ tục tố tụng nào để giải quyết trong trường hợp không tiến hành hòa giải được khi giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn (chương XXVIII) Theo quy định tại Điều 397 BLTTDS về hòa giải và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, chỉ đặt ra trường hợp hòa giải thành, vợ chồng đoàn tụ (khoản 3) thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu; trường hợp hòa giải không thành mà các bên thỏa thuận được với nhau (khoản 4) thì Thẩm phán ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự; trường hợp hòa giải không thành mà các bên không thỏa thuận với nhau (khoản 5) thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Vậy trong trường hợp đương sự thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn nhưng do một bên không thể tham gia hòa giải được (ví dụ đang lao động, làm việc tại nước ngoài) theo quy định tại Điều 207 BLTTDS thì áp dụng thủ tục tố tụng nào để giải quyết. Do hiện nay chưa có quy định cụ thể nên Tòa án địa phương đã vận dụng mở phiên họp để ra quyết định giải quyết. - Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “ Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”. Vậy trong trường hợp vợ chồng sống ly thân, người cha hoặc người mẹ không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, đến khi vợ chồng ly hôn người nuôi con yêu cầu Tòa án buộc người vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong thời gian ly thân thì có được xem xét để giải quyết hay không? (Hà Nam). |
Theo quy định tại Điều 54 Luật Hôn nhân và gia đinh, Điều 10 BLTTDS thì Tòa án có trách nhiệm hòa giải khi tiến hành giải quyết các vụ việc dân sự nối chung và các vụ việc ly hôn nói chung. Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, thì Thẩm phán chỉ ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự khi có đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 4 Điều 397 BLTTDS. Trường hợp đương sự thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn nhưng do một bên không thể tham gia hòa giải được (ví dụ đang lao động, làm việc tại nước ngoài), do không thể hòa giải được nên không thể biết hai bên có thực sự tự nguyện ly hôn không, việc thỏa thuận của các bên có hoàn toàn tự nguyện không.... nên Thẩm phán phải mở phiên họp để giải quyết yêu cầu theo quy định tại Điều 369 BLTTDS là phù hợp.
Trường hợp vợ chồng sống ly thân, người cha hoặc người mẹ không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên theo quy định tại Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình, đến khi vợ chồng ly hôn, người nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án buộc người vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong thời gian ly thân nếu có đủ các tài liệu chứng cứ chứng minh người đó không hoàn thành nghĩa vụ của mình. |
2 |
Trường hợp không công nhận là cha, mẹ, con mà các bên cũng không có tranh chấp thì có thuộc trường hợp điều chỉnh tại quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật hôn nhân gia đình hiện hành hay không? Tại khoản 2 Điều 89 Luật Hôn nhân gia đình hiện hành quy định: “Người được nhận là cha,mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình”. Như vậy, Luật hiện hành chỉ quy định trường hợp chính bản thân của người được nhận là cha, mẹ mới có quyền yêu cầu Tòa án xác định một người không phải là con mình. Trên thực tế phát sinh trường hợp, khi ly hôn cả vợ chồng đều xác định là con chung. Nhưng sau khi ly hôn người vợ có yêu cầu Tòa án công nhận đứa con được sinh ra trong thời kì hôn nhân không phải là con của người chồng (con dưới 6 tuổi). Nếu căn cứ theo quy định trên, thì người vợ không có quyền yêu cầu mà chỉ người chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án không công nhận con sinh ra trong thời kì hôn nhân với người vợ là con của mình. Vậy nếu người vợ có yêu cầu nhưng chồng không thống nhất với yêu cầu của người vợ, vẫn xác định là con của mình thì Tòa án giải quyết vấn đề này như thế nào? Tòa án có thụ lý, giải quyết vụ án theo yêu cầu của người vợ - với tư cách của nguyên đơn hay không? Nếu trong trường hợp này người chồng thống nhất với yêu cầu của người vợ, cùng xác định con được sinh ra không phải là con của người chồng thì giữa vợ, chồng không có tranh chấp. Vậy, họ có thể yêu cầu Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác nhận con không phải là con của người chồng hay không? Tại khoản 1 Điều 101 Luật hôn nhân gia đình hiện hành quy định: “Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp”. Theo quy định trên Cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ có thẩm quyền xác định, cha, mẹ con khi các bên không có tranh chấp, vậy trường hợp không công nhận là cha, mẹ, con mà các bên cũng không có tranh chấp thì có thuộc trường hợp điều chỉnh tại quy định trên hay không? (Bạc Liêu). |
Luật HNGĐ hiện hành chỉ qui định trường hợp một người có quyền yêu cầu Tòa án xác định người đó là con hay không phải là con mình chứ không qui định một người nào khác có quyền yêu cầu Tòa án xác định một người không phải cha, mẹ con của họ. Đây là qui định liên quan đến quyền nhân thân nên chỉ bản thân người đó mới có quyền yêu cầu xác định hay không. Do đó, trong trường hợp này, nếu người chồng vẫn xác định là con của mình mà không yêu cầu Tòa án xác định con sinh ra trong thời kì hôn nhân với người vợ không phải là con của mình thì người vợ không có quyền yêu cầu nên Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết vụ án theo yêu cầu của người vợ với tư cách là nguyên đơn vì không đủ điều kiện khởi kiện. Trong trường hợp người chồng thống nhất với yêu cầu của người vợ, cùng xác định con được sinh ra không phải là con của người chồng, không có tranh chấp thì người chồng có thể có yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con của mình theo yêu cầu của người vợ mà không áp dụng theo qui định tại Khoản 1 Điều 101 Luật HNGĐ hiện hành vì nội dung điều luật này chỉ áp dụng cho những trường hợp xác định cha, mẹ cho con mà không phải trường hợp không công nhận là cha, mẹ của con.
|
3 |
Trường hợp quy định tại điểm b, khoản 7, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định về chia tài sản chung: “…Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản họ được chia sau khi trừ đi giá trị tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba…”. Căn cứ theo quy định trên, thì không xác định rõ là tài sản chung mà các bên đương sự được chia khi ly hôn có được đối trừ vào nợ riêng của các bên đương sự có nghĩa vụ phải thực hiện đối với bên thứ ba hay không. Do đó, dẫn đến việc Tòa án tùy nghi trong việc áp dụng quy định này, gây khó khăn cho công tác kiểm sát cũng như áp dụng pháp luật một cách thống nhất (Bạc Liêu). |
Tại điểm e khoản 1 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án (Nghị quyết số 326) có quy định như sau: .“5. Đối với vụ án hôn nhân và gia đình thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau: ... e) Trường hợp các đương sự có tranh chấp về việc chia tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng, Tòa án tiến hành hòa giải, các đương sự thống nhất thỏa thuận được về việc phân chia một số tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung, còn một số tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung không thỏa thuận được thì các đương sự vẫn phải chịu án phí đối với việc chia toàn bộ tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng.” Như vậy, trường hợp vợ chồng có tranh chấp về việc chia tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng đối với người khác mà nếu vợ chồng không thỏa thuận được hết việc phân chia toàn bộ số tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung đối với người khác thì họ phải chịu án phí đối với việc chia toàn bộ tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, đối với trường hợp do VKS Bạc Liêu nêu: “tài sản chung mà các bên đương sự được chia khi ly hôn có được đối trừ vào nợ riêng của các bên đương sự có nghĩa vụ phải thực hiện đối với bên thứ ba hay không”. Về vấn đề này thấy rằng: Tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng và tranh chấp nghĩa vụ tài sản của vợ hoặc chồng đối với bên thứ ba là hai quan hệ pháp luật khác nhau, bản chất sự việc khác nhau. Không phải lúc nào vợ chồng cũng được chia tài sản như nhau và có nghĩa vụ tài sản đối với người khác như nhau. Nếu tính án phí chia tài sản chung của vợ chồng sau khi trừ đi nghĩa vụ tài sản thì có trường hợp nghĩa vụ tài sản nhiều hơn giá trị tài sản mà vợ chồng được chia nên vợ chồng không phải chịu án phí chia tài sản chung của vợ chồng mặc dù họ được Tòa án chia tài sản chung. Để giải quyết vấn đề này, tại điểm c khoản 3 Điều 13 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí tòa án quy định: .“3. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ về tài sản đối với người khác và người này có yêu cầu độc lập, yêu cầu vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà Tòa án chấp nhận yêu cầu độc lập đó thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm như sau: c) Vợ chồng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản họ được chia sau khi trừ đi giá trị phần tài sản mà họ có nghĩa vụ đối với người có yêu cầu độc lập.”. Hiện nay, TANDTC vẫn chưa có hướng dẫn thay thế nên trong trường hợp như VKS Bạc Liêu đưa ra nêu trên, nếu bên thứ 3 có yêu cầu độc lập và được Tòa án chấp nhận sẽ áp dụng quy định tại điểm c khoản 3 Điều 13 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012; nếu bên thứ ba không có yêu cầu độc lập hoặc có yêu cầu độc lập nhưng không được tòa án chấp nhận thì áp dụng điểm e khoản 1 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để giải quyết.
|
4 |
Trường hợp trong vụ án hôn nhân và gia đình, người được Tòa án giao quyền nuôi con nhưng vợ (chồng) không giao con theo quyết định của bản án: Người có nghĩa vụ giao con không thi hành theo quyết định của bản án, đồng thời khởi kiện đến Tòa án yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Vậy người không thi hành bản án và đang trực tiếp nuôi con trên thực tế có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay không? Hiện nay, vấn đề này hiện vẫn còn nhiều quan điểm nhận thức khác nhau, chưa được hiểu một cách thống nhất, gây khó khăn trong việc thụ lý và giải quyết đối với tranh chấp này (Bạc Liêu). |
Theo quy định tại Điều 4 và khoản 2 Điều 68 BLTTDS thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tòa án giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi có các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
|
5 |
Trong vụ án ly hôn, tranh chấp về con chung, chia tài sản chung: Trường hợp nguyên đơn rút một phần yêu cầu chia tài sản chung trước thời điểm mở phiên họp, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ Toà án không ra quyết định đình chỉ riêng biệt theo quy định điểm c, khoản 1, Điều 217 BLTTDS mà Quyết định đình chỉ trong phần quyết định của bản án. Như vậy theo quy định Điều 273 BLTTDS quy định: 1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.... 2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này...”. Việc Toà án quyết định đình chỉ trong bản án như vậy có ảnh hưởng đến quyền kháng cáo và quyền kháng nghị của Viện kiểm sát? (Hải Dương). |
Tòa án quyết định đình chỉ trong bản án như vậy không ảnh hưởng đến quyền kháng cáo, kháng nghị của viện kiểm sát. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm và kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết của Tòa án vẫn theo quy định tại Điều 273 BLTTDS.
|
6 |
Đối với vụ án hôn nhân và gia đình khi thụ lý giải quyết về vấn đề ly hôn, con chung, tài sản, nợ chung: Trong quá trình giải quyết đương sự rút yêu cầu về vấn đề tài sản chung, khi đó Tòa án đình chỉ yêu cầu này trong cùng quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự. Việc này gây khó khăn trong việc nhận định đương sự có quyền khởi kiện lại yêu cầu đã rút và việc kháng nghị của Viện kiểm sát đối với phần quyết định đình chỉ này (Long An). |
Về nguyên tắc đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết khi có đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án họ có quyền chấm dứt hay thay đổi yêu cầu của mình (Điều 5 BLTTDS). Nên đối với trường hợp vụ án hôn nhân và gia đình khi thụ lý giải quyết về vấn đề ly hôn, con chung, chia tài sản chung, nợ chung mà trong quá trình giải quyết đương sự rút một phần yêu cầu khởi kiện về vấn đề chia tài sản chung thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử, HĐXX sẽ đánh giá, nhận định và quyết định đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu chia tài sản chung của đương sự và ghi nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự về vấn đề ly hôn, con chung, nợ chung theo quy định tại Khoản 2 Điều 244, Điều 246, Điểm c Khoản 2 Điều 266 BLTTDS. Như vậy, mới giải quyết triệt để và có cơ sở pháp lý, đảm bảo quyền khởi kiện lại, quyền kháng cáo của đương sự và quyền kháng nghị của VKS đối với phần quyết định đình chỉ này. |
Bạn vừa đọc bài viết TỔNG HỢP KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LIÊN QUAN ĐẾN CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH thuộc trang Hành chính trên website: brl.vn. Hẹn gặp bạn ở những bài viết sau.