Phải làm gì khi người chấp hành án phạt tù không có tiền bồi thường thiệt hại?
Phải làm gì khi người chấp hành án phạt tù không có tiền bồi thường thiệt hại?
Bồi thường thiệt hại trách nhiệm dân sự buộc bên gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả của hành vi bằng việc đền bù các tổn thất về vật chất và những tổn thương về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Vậy phải làm gì khi người chấp hành án phạt tù không có tiền bồi thường thiệt hại?
Đã chấp hành án phạt tù có phải bồi thường thiệt hại hay không?
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định như thế nào?
Điều 30 của luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành song song với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình có phát sinh vấn đề bồi thường thiệt hại cần phải giải quyết, mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách vấn đề dân sự ra giải quyết riêng theo quy định thủ tục tố tụng dân sự.
Trong hệ thống pháp luật dân sự và hình sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là một vấn đề được lồng ghép bởi quan hệ dân sự được pháp luật điều chỉnh. Điều 584 của Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rõ người nào có hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích của người khác mà gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Đó là sự đền bù tổn thất về vật chất mà còn có giá trị bù đắp về mặt tinh thần cho bên bị thiệt hại bởi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp gây ra. Cần lưu ý rằng người gây ra thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại gây ra bởi sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của bản thân người bị thiệt hại.
Đối tượng và quyền lợi của bên bị thiệt hại trong vụ án hình sự
Điều 62 và 63 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định đối tượng cũng như quyền lợi của bên bị thiệt hại phát sinh trong vụ án hình sự. Bên bị thiệt hại trong vụ án hình sự có thể là cá nhân bị tổn thất trực tiếp về thể chất, tài sản, hay tinh thần hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản và uy tín. Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại có thể yêu cầu hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, và đề xuất biện pháp bảo đảm bồi thường.
Như đã trình bày ở phần trước, quá trình giải quyết bồi thường thiệt hại mang tính dân sự có thể được giải quyết cùng với quá trình xử lý vụ án hình sự hoặc có thể được tách biệt thành một vụ án riêng biệt. Điều này có nghĩa rằng trách nhiệm hình sự là chấp hành án phạt tù và trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hai trách nhiệm độc lập của người phạm tội trong vụ án hình sự. Ngay cả khi người phạm tội đã bị kết án và phải thụ án tù, người đó vẫn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có.
Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị hại trong vụ án hình sự
Việc yêu cầu bồi thường thiệt hại được nêu tại Điều 585 của Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải được thực hiện đầy đủ và kịp thời. Bên bị thiệt hại, nguyên đơn dân sự có quyền yêu cầu thỏa thuận cách thức, mức bồi thường;
- Người bị kết án chấp hành hình phạt tù có thể được xem xét để giảm mức bồi thường thiệt hại nếu như bản thân người đó phạm lỗi vô ý, thiệt hại quá lớn so với khả năng tài chính của họ. Đây là điểm thực tế và mang tính nhân văn của pháp luật khi có xét đến yếu tố lỗi cố ý hay vô ý, và căn cứ vào thực tế khả năng chi trả của người phạm tội.
- Khi xét thấy mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với tình hình thực tế, bên bị thiệt hại, bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh lại mức đền bù phù hợp hơn;
- Nếu thiệt hại có lỗi của bên bị thiệt hại gây ra thì họ sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của người bị thiệt hại gây ra;
- Bên bị thiệt hại sẽ không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do bản thân họ không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại cho chính mình. Đây là yếu tố tính đến trách nhiệm và lỗi của mỗi bên trong vụ việc, đảm bảo sự công bằng và hợp lý.
Xử lý trường hợp người chấp hành án phạt tù không có đủ tiền bồi thường thiệt hại
Khoản 2 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bởi khoản 17 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014 có nêu rõ quy trình xác minh điều kiện thi hành án như sau:
Trong thời hạn 10 ngày cần xác minh điều kiện thi hành án
Trong thời hạn 10 ngày tính từ thời điểm hết thời hạn đương sự tự nguyện thi hành án nếu người đó không chấp hành thì Chấp hành viên có trách nhiệm tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Việc xác minh phải được tiến hành ngay trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Người có trách nhiệm phải thi hành án phải kê khai trung thực cũng như có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin chi tiết về tài sản, thu nhập, cũng như điều kiện thi hành án của mình cho cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực với nội dung mà mình kê khai.
Người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án thì phải tiến hành xác minh định kỳ
Trong trường hợp chưa có điều kiện thi hành án, Chấp hành viên có trách nhiệm tiến hành xác minh điều kiện này ít nhất 06 tháng một lần. Và xác minh ít nhất 1 năm một lần đối với người đang chấp hành hình phạt tù và thời gian chấp hành án còn lại từ 02 năm trở lên, hoặc không xác định được địa chỉ cư trú mới của người này. Nếu sau hai lần xác minh và người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự thông báo bằng văn bản kết quả xác minh cho người được thi hành án. Khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án sẽ tiến hành xác minh lại. Điều này đảm bảo tính minh bạch và thông tin kịp thời đến những người liên quan, để các bên hiểu rõ về tình hình cũng như nắm được kết quả của quá trình xác minh.
Hơn nữa, việc tiến hành xác minh lại khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án là một bước cập nhật thông tin và đảm bảo tính chính xác của dữ liệu. Điều này giúp duy trì sự linh hoạt và sẵn sàng điều chỉnh các quy trình theo diễn biến thực tế của cơ quan thi hành án, đảm bảo quá trình thi hành án được diễn ra hiệu quả, kịp thời và công bằng.
Nguyên tắc thi hành án hình sự
- Việc thi hành án hình sự luôn đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
- Đảm bảo tính nghiêm chỉnh chấp hành của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
- Việc thi hành án đảm bảo tính nhân đạo, tôn trọng danh dự, nhân phẩm cũng như những quyền và lợi ích hợp pháp khác của người phải chấp hành án;
- Việc thi hành án đảm bảo tính kết hợp trừng trị và giáo dục, răn đe và có tính cải tạo; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cũng như dựa vào độ tuổi, sức khỏe, giới tính cũng như trình độ học vấn và các đặc điểm nhân thân khác của người phải chấp hành án.
- Đối với việc thi hành án người dưới 18 tuổi chủ yếu nhằm mục giáo dục, cải tạo và giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần để trở thành người có ích cho xã hội sau khi hết thời gian chấp hành án;
- Khuyến khích người chấp hành án tự nguyện bồi thường thiệt hại, ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo;
- Việc thi hành án cũng phải bảo đảm quyền được khiếu nại, tố cáo về những hành vi hay quyết định trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong thi hành án hình sự.
- Hoạt động thi hành án hình sự đảm bảo sự tham gia của nhiều tổ chức cá nhân cùng nhau hỗ trợ, giúp người hết thời gian chấp hành án được có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng sống có ích cho xã hội.
Bài viết trên hi vọng cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin hữu ích. Nếu có nhu cầu tư vấn, và cần hỗ trợ các thủ tục pháp lý khác, quý khách hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh chóng và kịp thời.
Công ty TNHH Luật Bright Legal
Email: [email protected]
Điện thoại: 0906.219.525
Đã chấp hành án phạt tù có phải bồi thường thiệt hại hay không?
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định như thế nào?
Điều 30 của luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành song song với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình có phát sinh vấn đề bồi thường thiệt hại cần phải giải quyết, mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách vấn đề dân sự ra giải quyết riêng theo quy định thủ tục tố tụng dân sự.
Trong hệ thống pháp luật dân sự và hình sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là một vấn đề được lồng ghép bởi quan hệ dân sự được pháp luật điều chỉnh. Điều 584 của Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rõ người nào có hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích của người khác mà gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Đó là sự đền bù tổn thất về vật chất mà còn có giá trị bù đắp về mặt tinh thần cho bên bị thiệt hại bởi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp gây ra. Cần lưu ý rằng người gây ra thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại gây ra bởi sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của bản thân người bị thiệt hại.
Đối tượng và quyền lợi của bên bị thiệt hại trong vụ án hình sự
Điều 62 và 63 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định đối tượng cũng như quyền lợi của bên bị thiệt hại phát sinh trong vụ án hình sự. Bên bị thiệt hại trong vụ án hình sự có thể là cá nhân bị tổn thất trực tiếp về thể chất, tài sản, hay tinh thần hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản và uy tín. Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại có thể yêu cầu hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, và đề xuất biện pháp bảo đảm bồi thường.
Như đã trình bày ở phần trước, quá trình giải quyết bồi thường thiệt hại mang tính dân sự có thể được giải quyết cùng với quá trình xử lý vụ án hình sự hoặc có thể được tách biệt thành một vụ án riêng biệt. Điều này có nghĩa rằng trách nhiệm hình sự là chấp hành án phạt tù và trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hai trách nhiệm độc lập của người phạm tội trong vụ án hình sự. Ngay cả khi người phạm tội đã bị kết án và phải thụ án tù, người đó vẫn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có.
Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị hại trong vụ án hình sự
Việc yêu cầu bồi thường thiệt hại được nêu tại Điều 585 của Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải được thực hiện đầy đủ và kịp thời. Bên bị thiệt hại, nguyên đơn dân sự có quyền yêu cầu thỏa thuận cách thức, mức bồi thường;
- Người bị kết án chấp hành hình phạt tù có thể được xem xét để giảm mức bồi thường thiệt hại nếu như bản thân người đó phạm lỗi vô ý, thiệt hại quá lớn so với khả năng tài chính của họ. Đây là điểm thực tế và mang tính nhân văn của pháp luật khi có xét đến yếu tố lỗi cố ý hay vô ý, và căn cứ vào thực tế khả năng chi trả của người phạm tội.
- Khi xét thấy mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với tình hình thực tế, bên bị thiệt hại, bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh lại mức đền bù phù hợp hơn;
- Nếu thiệt hại có lỗi của bên bị thiệt hại gây ra thì họ sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của người bị thiệt hại gây ra;
- Bên bị thiệt hại sẽ không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do bản thân họ không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại cho chính mình. Đây là yếu tố tính đến trách nhiệm và lỗi của mỗi bên trong vụ việc, đảm bảo sự công bằng và hợp lý.
Xử lý trường hợp người chấp hành án phạt tù không có đủ tiền bồi thường thiệt hại
Khoản 2 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bởi khoản 17 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014 có nêu rõ quy trình xác minh điều kiện thi hành án như sau:
Trong thời hạn 10 ngày cần xác minh điều kiện thi hành án
Trong thời hạn 10 ngày tính từ thời điểm hết thời hạn đương sự tự nguyện thi hành án nếu người đó không chấp hành thì Chấp hành viên có trách nhiệm tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Việc xác minh phải được tiến hành ngay trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Người có trách nhiệm phải thi hành án phải kê khai trung thực cũng như có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin chi tiết về tài sản, thu nhập, cũng như điều kiện thi hành án của mình cho cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực với nội dung mà mình kê khai.
Người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án thì phải tiến hành xác minh định kỳ
Trong trường hợp chưa có điều kiện thi hành án, Chấp hành viên có trách nhiệm tiến hành xác minh điều kiện này ít nhất 06 tháng một lần. Và xác minh ít nhất 1 năm một lần đối với người đang chấp hành hình phạt tù và thời gian chấp hành án còn lại từ 02 năm trở lên, hoặc không xác định được địa chỉ cư trú mới của người này. Nếu sau hai lần xác minh và người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự thông báo bằng văn bản kết quả xác minh cho người được thi hành án. Khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án sẽ tiến hành xác minh lại. Điều này đảm bảo tính minh bạch và thông tin kịp thời đến những người liên quan, để các bên hiểu rõ về tình hình cũng như nắm được kết quả của quá trình xác minh.
Hơn nữa, việc tiến hành xác minh lại khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án là một bước cập nhật thông tin và đảm bảo tính chính xác của dữ liệu. Điều này giúp duy trì sự linh hoạt và sẵn sàng điều chỉnh các quy trình theo diễn biến thực tế của cơ quan thi hành án, đảm bảo quá trình thi hành án được diễn ra hiệu quả, kịp thời và công bằng.
Nguyên tắc thi hành án hình sự
- Việc thi hành án hình sự luôn đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
- Đảm bảo tính nghiêm chỉnh chấp hành của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
- Việc thi hành án đảm bảo tính nhân đạo, tôn trọng danh dự, nhân phẩm cũng như những quyền và lợi ích hợp pháp khác của người phải chấp hành án;
- Việc thi hành án đảm bảo tính kết hợp trừng trị và giáo dục, răn đe và có tính cải tạo; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cũng như dựa vào độ tuổi, sức khỏe, giới tính cũng như trình độ học vấn và các đặc điểm nhân thân khác của người phải chấp hành án.
- Đối với việc thi hành án người dưới 18 tuổi chủ yếu nhằm mục giáo dục, cải tạo và giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần để trở thành người có ích cho xã hội sau khi hết thời gian chấp hành án;
- Khuyến khích người chấp hành án tự nguyện bồi thường thiệt hại, ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo;
- Việc thi hành án cũng phải bảo đảm quyền được khiếu nại, tố cáo về những hành vi hay quyết định trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong thi hành án hình sự.
- Hoạt động thi hành án hình sự đảm bảo sự tham gia của nhiều tổ chức cá nhân cùng nhau hỗ trợ, giúp người hết thời gian chấp hành án được có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng sống có ích cho xã hội.
Bài viết trên hi vọng cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin hữu ích. Nếu có nhu cầu tư vấn, và cần hỗ trợ các thủ tục pháp lý khác, quý khách hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh chóng và kịp thời.
Công ty TNHH Luật Bright Legal
Email: [email protected]
Điện thoại: 0906.219.525
Bạn vừa đọc bài viết Phải làm gì khi người chấp hành án phạt tù không có tiền bồi thường thiệt hại? thuộc trang Tin tức chuyên ngành trên website: brl.vn. Hẹn gặp bạn ở những bài viết sau.
Nguyễn Ngọc Giang