Bình luận về quy định tạm hoãn xuất cảnh đối với người đứng đầu doanh nghiệp nợ thuế hiện nay

Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp – đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân – đã phản ánh về việc người đại diện pháp luật bị tạm hoãn xuất nhập cảnh do nợ thuế. Đây là biện pháp đang được cơ quan quản lý thuế áp dụng phổ biến nhằm cưỡng chế thu hồi nghĩa vụ tài chính. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này có còn phù hợp với bối cảnh hội nhập, quyền con người và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay hay không đang là một vấn đề cần được nhìn nhận lại một cách toàn diện nhất là trước tình hình cơ quan thuế các cấp mới chỉ thu được gần 5000 tỷ đồng trên tổng số tiền nợ thuế 83.000 tỷ đồng trong khi đó đã phát hành trên 61.000 thông báo tạm hoãn xuất cảnh.[1]

Bình luận về quy định tạm hoãn xuất cảnh đối với người đứng đầu doanh nghiệp nợ thuế hiện nay

Trước hết quyền tự do đi lại là quyền cơ bản cần được bảo đảm theo luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế. Quyền tự do đi lại là quyền cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, cụ thể tại Điều 23: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”

Điều 13 Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền 1948 khẳng định: “…. 2) Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả quốc gia của mình, và có quyền hồi hương….”

Ngoài ra, Việt Nam cũng là quốc gia thành viên của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) – được phê chuẩn theo Quyết định số 49-CT ngày 24/5/1982. Điều 12.2 của Công ước quy định: ….2. Mọi người đều có quyền tự do rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình .

  1. Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.”.

Việc hạn chế quyền đi lại chỉ được cho phép nếu có căn cứ pháp lý rõ ràng; nhằm mục đích chính đáng như: an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội và phù hợp nguyên tắc cần thiết, tương xứng với mục tiêu chính đáng cần bảo vệ và không phân biệt đối xử.

Việc tạm hoãn xuất cảnh của người đứng đầu doanh nghiệp nợ thuế được quy định trong khoản 5 Điều 36 Luật Quản lý thuế 2019, khi đặt lên bàn cân phân tích theo nguyên tắc tương xứng, biện pháp này bộc lộ nhiều bất cập.

Thứ nhất, mục tiêu chính đáng có thể chưa đủ để biện minh cho biện pháp mạnh

Việc thu hồi nợ thuế là một mục tiêu quản lý tài chính công hợp pháp. Tuy nhiên, cần xét xem liệu mục tiêu tài chính này đủ mạnh để hạn chế một quyền con người cơ bản là quyền rời khỏi quốc gia hay không?

Theo các hướng dẫn giải thích ICCPR của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc, một mục tiêu tài chính đơn thuần (ví dụ: truy thu thuế) thường không đủ để hạn chế quyền xuất cảnh, trừ khi gắn với an ninh quốc gia, trật tự công cộng, hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Việc người đứng đầu doanh nghiệp nợ thuế không đồng nghĩa với việc người đó cố tình bỏ trốn, hoặc có hành vi lừa đảo, gian lận thuế – các yếu tố có thể biện minh cho việc giới hạn quyền tự do đi lại.

Thứ hai, không tương xứng về mức độ ảnh hưởng và hậu quả

Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là một trong những hạn chế mạnh nhất đối với quyền tự do cá nhân, tác động lớn đến: Quyền tự do kinh doanh, tiếp cận thị trường và đối tác quốc tế của doanh nghiệp; quyền mưu sinh, hội nhập và các hoạt động chính đáng của cá nhân hay thậm chí ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập, chăm sóc người thân ở nước ngoài…

Trong khi đó, mức độ vi phạm nợ thuế quá hạn không phải lúc nào cũng do lỗi chủ quan hoặc mang tính chất trốn tránh pháp luật. Có nhiều trường hợp doanh nghiệp đang trong quá trình khắc phục nợ, hoặc có khó khăn tài chính tạm thời.

Việc áp dụng một biện pháp cứng rắn, mang tính cấm đoán mạnh như tạm hoãn xuất cảnh mà không đánh giá đầy đủ bối cảnh, thiện chí hợp tác và khả năng trả nợ là không cân xứng với mức độ vi phạm.

Hơn nữa, trong một số quy định liên quan đến việc tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện doanh nghiệp chưa phân loại rõ giữa các mức độ vi phạm nghĩa vụ thuế, Luật Quản lý thuế 2019 quy định tại khoản 7 điều 124.1: “Cá nhân là người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế trước khi xuất cảnh và có thể bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh.” Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014, sửa đổi 2019 quy định một trong các trường hợp tạm hoãn xuất cảnh: “c) Chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế;.”

Quy định mới nhất tại điều 3 Nghị định 49/2025/NĐ-CP, áp dụng ngưỡng tiền thuế nợ và thời gian nợ trong các trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nợ tiền thuế từ 500 triệu đồng trở lên và quá thời hạn nộp trên 120 ngày thì bị tạm hoãn xuất cảnh. Số tiền 500 triệu đồng có thể là con số đáng kể đối với một số doanh nghiệp nhỏ tuy nhiên với các doanh nghiệp vừa và lớn, đây không phải là mức nợ quá nghiêm trọng trong bối cảnh hoạt động kinh doanh bình thường. Nhiều doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng nợ thuế do dòng tiền bị đình trệ tạm thời, do ảnh hưởng kinh tế khách quan như: dịch bệnh, thị trường khó khăn,…., chứ không phải do gian lận hay cố tình trốn thuế. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thiện chí khắc phục nợ hoặc đang trong tiến trình khiếu nại/quyết toán, nhưng vẫn bị tạm hoãn xuất cảnh. Ngoài ra, mốc thời gian 120 ngày là một tiêu chí hành chính tương đối, chưa phản ánh đầy đủ ý chí né tránh nghĩa vụ hay dấu hiệu bỏ trốn. Không có quy định bắt buộc người đại diện doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm cá nhân về khoản nợ, trừ khi chứng minh được họ có hành vi trốn thuế, che giấu tài sản, hoặc gây thiệt hại cố ý. Việc gán trách nhiệm và áp dụng biện pháp mạnh như tạm hoãn xuất cảnh chỉ dựa trên định lượng máy móc (500 triệu và 120 ngày) không đồng nghĩa với hành vi trốn thuế hay gây nguy hại đến trật tự công cộng và cũng chưa đủ cơ sở để hạn chế một quyền cơ bản của con người.

Tại Điều 37 Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tạm hoãn xuất cảnh bao gồm: cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thuế, hải quan, tài chính, thi hành án dân sự, thanh tra, kiểm tra… Các cơ quan này gửi văn bản đề nghị đến Cục Quản lý xuất nhập cảnh để thực hiện việc tạm hoãn.

Việc tạm hoãn có thời hạn tối đa 01 năm và có thể được gia hạn nếu lý do vẫn còn. Khi lý do tạm hoãn không còn, cơ quan đã yêu cầu phải gửi văn bản hủy bỏ đề nghị để khôi phục quyền xuất cảnh cho đương sự.

Cơ chế tạm hoãn xuất cảnh có thể hợp lý trong một số trường hợp, đây là biện pháp cần thiết để ngăn chặn việc trốn tránh nghĩa vụ thuế và bảo vệ lợi ích công. Tuy nhiên cũng không nên quá cứng nhắc mà cần cân nhắc đến mức độ, tính chất của hành vi nợ thuế, ngoài ra nếu thời hạn tạm hoãn lên đến một (1) năm thì có thể sẽ gây thiệt hại rất lớn đối với doanh nghiệp vì đã bỏ lỡ các cơ hội hợp tác kinh doanh quốc tế.

Trên thực tế biện pháp tạm hoãn xuất cảnh có thể sẽ không thực sự hiệu quả, theo số liệu công bố trong tháng 5/2025, chỉ thu hồi được khoảng 6% nợ thuế, trong khi đó các cơ quan thuế trên toàn quốc đã ban hành hơn 61.000 thông báo tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện theo pháp luật hoặc lãnh đạo các doanh nghiệp nợ thuế bất chấp việc sử dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh hàng chục nghìn lượt. Phản ứng của doanh nghiệp cho thấy việc hạn chế quyền đi lại không tạo được động lực kinh tế rõ rệt để họ nhanh chóng nộp thuế – đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp đã ngừng hoạt động hoặc không còn dòng tiền.

Việc cấm xuất cảnh chủ yếu nhắm đến việc tăng áp lực tâm lý lên người đại diện doanh nghiệp, thay vì giải quyết bản chất vấn đề – là khả năng tài chính thực sự và dòng tiền hoạt động. Trong trường hợp doanh nghiệp nợ thuế do khó khăn tài chính thật sự, việc cấm xuất cảnh không giúp họ có thêm nguồn lực để nộp thuế. Trong bối cảnh doanh nghiệp hiện đại thường thuê giám đốc điều hành, việc mặc định người đại diện pháp luật luôn chịu trách nhiệm về nợ thuế là không phù hợp với thực tiễn quản trị doanh nghiệp và tiềm ẩn nguy cơ lạm quyền, xâm phạm quyền con người hoặc sẽ dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp cố tình chây ỳ, các cá nhân đứng tên pháp lý thường không còn thực quyền, không còn điều hành doanh nghiệp, nên biện pháp này càng ít hiệu quả.

Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh gây nhiều hệ lụy đối với môi trường đầu tư kinh doanh, điều này làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, đặc biệt với nhà đầu tư nước ngoài nếu người điều hành doanh nghiệp bị hạn chế đi lại. Làm cản trở hoạt động kinh doanh, giao dịch thương mại, xúc tiến đầu tư – vốn là những kênh có thể giúp doanh nghiệp hồi phục dòng tiền và thanh toán nợ thuế và mâu thuẫn với chính sách hiện hành của Chính phủ Việt Nam về hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau dịch, khuyến khích khởi nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư.

Hầu hết các quốc gia phát triển hiện nay không áp dụng hoặc rất hạn chế việc cấm xuất cảnh vì lý do nợ thuế. Thay vào đó, họ áp dụng các biện pháp tài chính hiệu quả và hợp pháp hơn, chẳng hạn đối với Hoa Kỳ, Cơ quan Thuế vụ Liên bang (IRS) sẽ thực hiện các biện pháp cưỡng chế bao gồm ghi nhận quyền lợi pháp lý đối với tài sản của doanh nghiệp để đảm bảo thu hồi nợ thuế hoặc thu giữ tài sản của doanh nghiệp chẳng hạn như tài khoản ngân hàng, tiền lương hoặc tài sản cá nhân, để thanh toán nợ thuế. [2] Một số quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (EU) sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế như tài khoản ngân hàng, khấu trừ tài sản, và áp dụng “hồ sơ tín dụng thuế” trong hệ thống ngân hàng nội khối. [3]

Các biện pháp này đều không xâm phạm quyền con người, nhưng lại đạt được hiệu quả kinh tế rõ rệt và tăng cường sự minh bạch.

Trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy môi trường đầu tư thuận lợi, tránh hình sự hóa quan hệ kinh tế – dân sự và thực thi cam kết quốc tế, đã đến lúc cần cân nhắc điều chỉnh cơ chế tạm hoãn xuất cảnh vì nợ thuế, việc tạm hoãn xuất cảnh chỉ nên áp dụng trong trường hợp đặc biệt có dấu hiệu tẩu tán tài sản, bỏ trốn, vi phạm nghiêm trọng và có đánh giá rủi ro cụ thể. Bên cạnh đó, cần xây dựng quy trình minh bạch: Thông báo trước, có cơ chế khiếu nại, kháng nghị và thời hạn tạm hoãn rõ ràng. Đặc biệt cân nhắc thực hiện các biện pháp tài chính như: trích tài khoản ngân hàng, cưỡng chế hóa đơn, công khai thông tin nợ thuế, áp dụng chấm điểm tín dụng thuế trong hệ thống tài chính ngân hàng. Cung cấp chính sách miễn/giảm tiền chậm nộp, hỗ trợ khoanh nợ, giãn nợ với doanh nghiệp có thiện chí hợp tác.

Việc chuyển đổi từ biện pháp cưỡng chế cứng nhắc sang quản trị rủi ro linh hoạt và nhân văn hơn sẽ giúp Việt Nam bảo đảm quyền con người, cải thiện môi trường đầu tư, đồng thời vẫn giữ được hiệu quả thu ngân sách nhà nước.

Nguồn:

[1] Số tiền nợ thuế hơn 83.000 tỷ đồng, cơ quan thuế thu được gần 5.000 tỷ đồng | Báo Dân trí

[2] Enforced collection actions | Internal Revenue Service

[3] Italy - Corporate - Tax administration

Bạn vừa đọc bài viết Bình luận về quy định tạm hoãn xuất cảnh đối với người đứng đầu doanh nghiệp nợ thuế hiện nay thuộc trang Hành chính trên website: brl.vn. Hẹn gặp bạn ở những bài viết sau.

Chia sẻ
Nguyễn Ngọc Giang