Quan điểm của cơ quan chức năng trong lĩnh vực đất đai.

Một số quan điểm xử lý các vụ việc về đất đai của các cơ quan chức năng

Quan điểm của cơ quan chức năng trong lĩnh vực đất đai.

SỐ TT

NỘI DUNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC

TRẢ LỜI

1

a) Về quan điểm giải quyết giữa Viện kiểm sát và Tòa án đối với một số vụ việc liên quan đến đất đai: Tranh chấp lối đi qua bất động sản liền kề: Đối với các đương sự có đất ở liền kề phía sau (được cấp cho hộ gia đình và đất này hiện đang thế chấp tại Ngân hàng để vay vốn) có yêu cầu chủ sở hữu bất động sản liền kề phía trước mở lối đi. Khi giải quyết vụ kiện, Viện kiểm sát nhận định đây là đất cấp cho hộ gia đình nên việc yêu cầu mở lối đi là có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của cả hộ và Ngân hàng là tổ chức đang trực tiếp quản lý hợp pháp tài sản, do đó cần phải đưa các thành viên trong hộ gia đình (có thể ủy quyền cho một người đại diện hộ) và Ngân hàng tham gia tố tụng, nhưng Tòa án lại nhận định việc mở lối đi chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chủ sở hữu có đất bị yêu cầu mở lối đi nên chỉ cần đưa đại diện chủ hộ của những người có đất liền kề phía sau tham gia tố tụng là đủ.

 

 

 

Quan điểm của Tòa án là đúng: Tòa án  nhận định việc mở lối đi chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chủ sở hữu có đất bị yêu cầu mở lối đi nên chỉ cần đưa đại diện chủ hộ của những người có đất liền kề phía sau tham gia tố tụng. Quan điểm của Tòa án là có cơ sở vì khi yêu cầu mở lối đi không làm giảm giá trị của đất, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành viên trong hộ có đất liền kề phía sau (căn cứ Điều 254 BLDS, Điều 68 BLTTDS).

 b) Đối với tranh chấp đất đai được cấp cho hộ gia đình, quan điểm của Viện kiểm sát cho rằng thành viên của hộ được tính là tất cả thành viên có trong hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu, nếu thành viên là người chưa thành niên thì phải có người đại diện hợp pháp, tuy nhiên một số Thẩm phán cho rằng chỉ đưa vào tham gia tố tụng đối với những thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể (Đồng Tháp).

Quan điểm của Viện kiểm sát là đúng vì:

Theo Hướng dẫn tại mục 4 Phần IV Công văn số 01//2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về tố tụng dân sự, thi hành án dân sự như sau:

“ Khi giải quyết vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất mà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó được cấp cho hộ gia đình và tại thời điểm giải quyết tranh chấp, thành viên hộ gia đình đã có sự thay đổi so với thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này những thành viên nào của hộ gia đình có quyền sử dụng đất đó? Những thành viên nào của hộ gia đình có quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng?

 Khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Như vậy, khi giải quyết vụ án dân sự mà cần xác định thành viên của hộ gia đình có quyền sử dụng đất cần lưu ý:

- Thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền sử dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

- Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xác định thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Khi giải quyết vụ án dân sự, ngoài những người là thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất, Tòa án phải đưa người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất của hộ gia đình, người có công sức đóng góp làm tăng giá trị quyền sử dụng đất hoặc tài sản trên đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

2

Về thẩm quyền giải quyết vụ án đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Căn cứ vào điểm a, khoản 1, Điều 37 BLTTDS (Quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh); khoản 9, Điều 26 BLTTDS (Quy định: Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai).

Tại  khoản 02 Điều 203 luật Đất đai 2013 (Quy định: Tranh chấp đất đai mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các giấy tờ theo qui định tại Điều 100 của Luật đất đai thì: a. Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định khoản 3 Điều này. b. Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.) và căn cứ vào khoản 3 Điều này Quy định: Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau: a. Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, công đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo qui định của pháp luật về tố tụng hành chính; b. Trường hợp tranh chấp giữa 01 bên là cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì khiếu nại đến Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo qui định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Theo quy định trên: Trường hợp tranh chấp giữa 01 bên là cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết khiếu nại; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì khiếu nại đến Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo qui định của pháp luật về tố tụng hành chính (thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp Tỉnh)

Thực tiễn xét xử cho thấy, Tòa án cấp Tỉnh vẫn hướng dẫn cho Tòa án cấp huyện thụ lý giải quyết là chưa phù hợp với quy định pháp luật.

- Theo  Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 hủy quyết định cá biệt thì thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh nhưng hiện nay Tòa án nhân dânTỉnh Đồng Tháp hướng dẫn cho Tòa án nhân dân cấp huyện nếu có căn cứ hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì tuyên thu hồi là chưa đúng theo quy định của Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Theo  khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 liên quan đến thẩm quyền giài quyết vụ, việc có yếu tố nước ngoài. Nhận thấy: Hiện nay có nhiều trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất mà người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang định cư, sinh sống làm ăn ở nước ngoài thì Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý chuyển về Tòa án nhân dân Tỉnh, Tòa án Tỉnh thụ lý lấy lời khai cha mẹ họ cho rằng không liên quan chuyển về Tòa án nhân dân cấp huyện như vậy là chưa phù hợp theo khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Hiện nay việc nêu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án trong các bản án dân sự còn ghi nhận tùy nghi, mỗi thẩm phán có cách ghi nhận khác nhau; đồng thời Mẫu bản án sơ thẩm – Mẫu số 52 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) cũng chưa đề cập đủ nội dung này, việc không ghi nhận đầy đủ ý kiến phát biểu của KSV tại phiên tòa vào bản án phần nào chưa thể hiện đầy đủ vai trò của Viện kiểm sát khi tham gia phiên tòa về việc giải quyết vụ án, căn cứ kiến nghị đối với nội dung này chưa được hướng dẫn (Đồng Tháp).

a) Về thẩm quyền giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

- Về thẩm quyền giải quyết: Tại điểm a, khoản 1 Điều 35BLTTDS quy định:

 “Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 Bộ luật này”…

Tại điểm a, khoản 1 Điều 37 BLTTDS quy định:

“Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và 4 Điều 35 của Bộ luật này”…

Đối chiếu với quy định nêu trên thì thẩm quyền giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì mới áp dụng quy định của Luật đất đai về thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân.

b) Về hủy quyết định cá biệt

Theo Điều 34 BLTTDS và tại mục 4 của Công văn số 70/VKSTC-V14 ngày 05/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp vướng mắc trong việc áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự trong Ngành, thì về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với vụ án dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt trái pháp luật thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tại mục 2 Phần II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 về thông báo kết quả giải quyết trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính quy định: “…Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự là giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân…Trên cơ sở đó, Điều 34 của BLTTDS quy định khi giải quyết các vụ việc dân sự, mà trong vụ việc đó có quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và nội dung của quyết định đó liên quan đến vụ việc Tòa án giải quyết thì Tòa án phải hủy quyết định đó để khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự…”

Đối chiếu với quy định nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp hướng dẫn cho Tòa án nhân dân cấp huyện  nếu có căn cứ hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì tuyên thu hồi là trái quy định của pháp luật. Như vậy, Viện kiểm sát thực hiện thẩm quyền kháng nghị đối với những bản án của Tòa án có vi phạm tuyên thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

c) Thẩm quyền giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài theo khoản 3 Điều 35 BLTTDS

Theo khoản 3 Điều 35 BLTTDS  quy định: “Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này”.

Về ủy thác thu thập chứng cứ theo Điều 105 BLTTDS quy định:

“1. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có thể ra quyết định ủy thác để Tòa án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều này lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, thẩm định tại chỗ, tiến hành định gí tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự…

4. Trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở nước ngoài thì Tòa án làm thủ tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của sđiều ước quốc tế có quy định về vấn đề này...”.

Trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất mà người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang định cư, sinh sống làm ăn ở nước ngoài thì Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý chuyển về Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án thụ lý lấy lời khai cha mẹ họ cho rằng không liên quan chuyển về Tòa án nhân dân cấp huyện. Đối chiếu với quy định trên trường hợp này nếu Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai của cha mẹ họ để cho rằng thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện giải quyết là không đúng.

d) Việc nêu ý kiến của Viện kiểm sát về giải quyết vụ án trong bản án dân sự mỗi Thẩm phán có ghi nhận khác nhau và ghi nhận không đầy đủ trong bản án

Những vấn đề này cần tập hợp để Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao họp xây dựng Thông tư liên tịch hoặc Quy chế phối hợp để hướng dẫn thực hiện.

 

Bạn vừa đọc bài viết Quan điểm của cơ quan chức năng trong lĩnh vực đất đai. thuộc trang Hỏi đáp đất đai trên website: brl.vn. Hẹn gặp bạn ở những bài viết sau.

Chia sẻ
Nguyễn Ngọc Giang